
Học song ngữ làm trẻ bị rối loạn ngôn ngữ.
Một trong những lo lắng lớn nhất của phụ huynh về việc xây dựng môi trường song ngữ ở nhà là dễ khiến bé bị rối loạn ngôn ngữ. Tuy nhiên chưa có một dẫn chứng khoa học nào khẳng định điều này. Một trong những hành vi dễ dẫn đến sự nhầm lẫn này đó là khi trẻ trộn lẫn 2 ngôn ngữ vào cùng 1 câu. Lý do đầu tiền trẻ làm việc này đó là vì việc trộn lẫn ngôn ngữ cũng diễn ra khá thường xuyên trong cộng đồng con sống và trẻ chỉ đơn giản bắt chước người lớn. Lý do thứ 2 thì cũng giống như những đứa trẻ học đơn ngữ khác, đó là trẻ em không có quá nhiều vốn từ. Bởi vậy khi trẻ không biết hoặc không thể nhớ ra ngay một từ ở ngôn ngữ này thì sẽ ngay lập từ mượn từ khác ở ngôn ngữ khác để diễn tả. Nói tóm lại, việc trộn lẫn không phải là dấu hiệu của sự rối loạn, nhầm lẫn mà chỉ đơn giản là một giai đoạn tất yếu trong tiến trình học song ngữ, thậm chí còn là dấu hiệu của sự khéo léo ở trẻ. Hơn nữa, trẻ em học song ngữ không dùng ngôn ngữ một cách vô căn cứ. Bởi một đứa trẻ 2 tuổi đã có khả năng điều chỉnh ngôn ngữ dựa theo đối phương trong cuộc trò chuyện và còn biết tuân thủ những quy tắc ngữ pháp mà người lớn vẫn thường sử dụng.
Khoa học cũng chỉ ra rằng trẻ em học song ngữ còn có khả năng phân biệt ngôn ngữ tốt hơn. Trẻ sơ sinh phân biệt được các ngôn ngữ khác nhau thông qua âm điệu, vậy nên các bé được tiếp xúc với song ngữ còn nhạy cảm với ngôn ngữ hơn trẻ chỉ học 1 ngôn ngữ. Nghiên cứu mới đây cũng cho rằng 1 đứa trẻ 4 tháng tuổi dù học đơn ngữ hay song ngữ cũng có thể phân biệt những cuộc nói chuyện không phát ra tiếng ở những ngôn ngữ khác nhau. Thế nhưng khi đến 8 tháng tuổi, chỉ có trẻ học song ngữ mới nhạy bén hơn với việc này, còn trẻ học đơn ngữ lại khó tập trung vào các chuyển động khuôn mặt.
Chỉ có học song ngữ mới giúp trẻ phát triển nhận thức tốt hơn
Không ai có thể phủ nhận được những lợi ích của việc học song ngữ trong đời sống. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc học song ngữ nâng cao khả năng thấu hiểu xã hội của trẻ. Bởi trẻ phải rất linh động trong việc giao tiếp khi những người nói ngôn ngữ khác nhau lại có nhiều đặc điểm xã hội khác nhau nên từ đó sẽ học cách thấu hiểu quan điểm, suy nghĩ, nguyện vọng hay ý định của người khác từ nhiều góc độ khác nhau.
Song ngữ cũng cho thấy một số lợi thế về nhận thức. Cụ thể, trẻ học song ngữ dường như thực hiện các nhiệm vụ chuyển giao giữa việc này và việc kia tốt hơn trẻ chỉ học đơn ngữ. Ngoài ra, còn có bằng chứng khoa học cho thấy trẻ sơ sinh học song ngữ được ưu tiên ở một số khía cạnh nhất định của bộ nhớ, chẳng hạn như khả năng khái quát thông tin từ sự kiện này đến sự kiện khác. Nghiên cứu chưa thể xác định chính xác những lợi thế này phát sinh từ đâu tuy nhiên khả năng cao là do việc thường xuyên chuyển đổi qua lại giữa các ngôn ngữ như vậy giúp bộ não trẻ được rèn luyện. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là song ngữ không phải là trải nghiệm duy nhất giúp trẻ phát triển nhận thức. Những đứa trẻ học đơn ngữ nhưng học tiếp xúc về âm nhạc từ sớm cũng có thể sở hữu lợi thế này.
“Một người chỉ nói một ngôn ngữ”
Có một phương pháp rất phổ biến được giới thiệu từ 100 năm trước khi nhắc đến giáo dục song ngữ đó là “Một người nói một ngôn ngữ”, chẳng hạn như trong gia đình thì bố chỉ được nói tiếng Việt và mẹ chỉ được nói tiếng Anh. Lý lẽ của những người ủng hộ phương pháp này đó là việc một người nói nhiều ngôn ngữ với trẻ có thể khiến trẻ bị rối loạn, tuy nhiên như những gì đã đề cập ở trên, không có một bằng chứng nào chứng minh rằng việc tiếp xúc với 2 ngôn ngữ khiến trẻ bị rối loạn. Tuy các nhà khoa học không phủ nhận lợi ích của sự nhất quán trong việc sử dụng ngôn ngữ với con, phương pháp này không nhất thiết là cách tối ưu để trẻ học cả 2 ngôn ngữ một cách tốt nhất.
Trẻ học ngôn ngữ chủ yếu qua nghe và tương tác với nhiều đối tượng khác nhau để có đủ sự tiếp xúc với âm thành, từ vựng và ngữ pháp. Nếu như vậy thì chất lượng lẫn số lượng mới là điều quan trọng nhất.
Về chất lượng, tiếp xúc với ngôn ngữ chất lượng cao đồng nghĩa với nhiều tương tác xã hội hơn là xem ti-vi nhiều hơn bởi nó sẽ cung cấp cho trẻ vốn từ vựng phong phú hơn. Còn số lượng thì có thể được đo lường bởi số từ mà trẻ nghe thấy mỗi ngày đối với từng ngôn ngữ. Nói một cách khác, để trẻ phát triển 2 ngôn ngữ một cách đồng đều thì tần số tiếp xúc của cả 2 ngôn ngữ cũng phải giống nhau. Vậy nên phương pháp “một người một ngôn ngữ” sẽ hiệu quả nếu cả bố lẫn mẹ dành thời gian cho con tiếp xúc với từng ngôn ngữ bằng nhau. Thế nhưng chẳng hạn như con chỉ nói tiếng Việt vào những dịp về thăm ông bà hay nói tiếng Anh khi đến lớp ngoại ngữ thì bố mẹ sẽ nhìn thấy độ lệch rõ rệt ở khả năng của trẻ trong từng ngôn ngữ. Tuy nhiên thực tế sự cân bằng tuyệt đối rất khó để đạt được bởi khi trẻ càng lớn chúng càng biết cách phân loại ngôn ngữ chính và ngôn ngữ phụ phụ thuộc vào môi trường sống. Chính vì lẽ đó mà các chuyên gia khuyến khích bố mẹ tập trung đầu tư cho ngôn ngữ phụ từ sớm trước khi trẻ có khả năng làm điều này. Nói tóm lại, bố mẹ có thể linh hoạt trong việc chọn phương pháp dạy song ngữ cho con nhưng hãy luôn nhớ một nguyên tắc đó là “chất lượng cao – số lượng cao”.
Mặc dù phát triển song ngữ đã chứng minh được những lợi ích rõ rệt đối với trẻ, tuy nhiên bố mẹ cũng nên nhớ rằng tuổi thơ vẫn là giai đoạn vô cùng quan trọng để phát triển cảm xúc, thể chất, nhận thức của trẻ. Giáo dục song ngữ chỉ là một phần trong số đó. Hơn nữa, bất kỳ lứa tuổi nào cũng có thể học thêm 1 ngôn ngữ khác. Vậy nên dạy trẻ song ngữ là lựa chọn tốt nhưng không phải là duy nhất.
Nguồn: Raised Happy